Nguyện xin Thiên Chúa trả công bội hậu cho những ai góp công sức và vật chất cho sự Thăng Tiến của Giáo Xứ (thanhmartino.blogspot.com). "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìn thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho"

Thánh Martino

THÁNH MARTINO DE PORRES

 SỨ GIẢ CỦA TÌNH THƯƠNG THIÊN CHÚA


Trong phng v ca Giáo hi công giáo, chúng ta được biết đến hai v thánh mang tên Martinô: thánh giám mc Martinô thành Tours (mng ngày 11-11) và thánh Martinô Porres tu sĩ (mng ngày 3-11). Để phân bit v hai v thánh này, nhiu người gi Martinô Porres bng nhng tên bình dân và thân thin khác như: thánh Martinô da đen, thánh Martinô hay làm phép l hay thánh Martinô người nghèo….
Tại Việt Nam, hầu như mọi giáo dân đều biết tới thánh Martinô Porres, họ rất yêu mến, tin tưởng và sùng kính ngài. Nhiều cá nhân, tập thể, đòan thể hay tước hiệu của nhà nguyện, nhà thờ, đền, đài… đã nhận thánh Martinô làm bổn mạng hay đặt dưới sự bảo trợ đặc biệt của ngài. Trước muôn vàn khó khăn của cuộc sống trần thế, nhiều tín hữu đã chạy đến kêu cầu sự trợ giúp của thánh Martinô, và họ đã nhận được nhiều ơn lành của Chúa qua sự trợ giúp đắc lực của ngài. Biết bao nhiêu giọt nước mắt đau khổ hay hạnh phúc trào ra đã được chứng kiến tại những nơi có treo ảnh, hay đặt tượng vị thánh tu sĩ nổi tiếng thuộc dòng Đaminh này.
 Có thể gọi thánh Martinô là sứ giả của tình thương Thiên Chúa đối với con người. Thánh Martinô đã trở thành khí cụ đắc lực và hữu dụng của Thiên Chúa. Ân sủng Thiên Chúa sẽ dư tràn cho những ai biết đặt trọn tin cậy và hy vọng nơi Ngài và những ai biết cậy nhờ lời bầu cử của thánh Martinô. Vị thánh có lòng bác ái cao độ của chúng ta không bao giờ từ chối điều gì nếu ngài có thể làm được.
Thánh nhân không sống tầm thường như đại đa số các thiếu niên nghèo của thành Lima, nước Pêru lúc bấy giờ. Mặc dù được sinh ra trong nỗi cô đơn và nhục nhã vì không cha, là con lai, nghèo khổ,… nhưng Martinô không lấy đó làm mặc cảm để rồi buông xuôi hay nổi lọan, nhưng đã biết vươn lên và vượt lên chính mình. Thánh Martinô đã tìm được nguồn vui và hạnh phúc nơi Chúa. Sự khiêm tốn đến cao độ của ngài được Chúa ân thưởng.
Martinô lớn lên trong cảnh nghèo nàn, thuộc giai cấp bần cùng của xã hội Lima hậu bán thế kỷ 16 và tiền bán thế kỷ 17. Thêm vào đó, những người “thuần chủng” gán cho Martinô vì mang hai dòng máu, không có cha, con lai, nhưng Martinô đã tìm ra được ý Chúa qua những biến cố, hòan cảnh, địa vị từ cuộc sống của mình. Không quá quan tâm tới những ác độc từ miệng lưỡi người khác, không co cụm khép kín nhưng biết phó thác cho Thiên Chúa và dùng những ơn lành Chúa ban để làm điều tốt lành đạo đức.
Cuộc đời của Martinô gởi tới mọi thế hệ nhân loại chúng ta sứ điệp của tình thương Thiên Chúa và mãi mãi là mẫu gương về lòng tin, cậy, mến nơi Thiên Chúa. Đứng trước bao nhiêu bấp bênh của cuộc sống, Martinô luôn là tấm gương sáng ngời để chúng ta noi gương bắt chước. Ngài có tấm lòng vàng, là con người thực tế nên nhiệt thành làm những hành động cụ thể cho người nghèo từ những việc làm đơn giản, khiêm tốn. Bằng nghề cắt tóc và giải phẫu học được khi mới 12 tuổi, ngài ra sức và không quản ngại phục vụ những người khác. Hiểu được sự nhục nhã do bị khinh miệt, tẩy chay của giai cấp thượng lưu, ác cảm của những người mang màu da thuần chủng, nên thánh nhân hết lòng đồng cảm và ra sức bảo vệ những người cùng cảnh ngộ như mình. Không cay đắng, không buông xuôi nhưng Martinô làm hết những gì có thể cho mình và cho những người bị xã hội loại bỏ. Thánh nữ Rosa Lima là bạn thân của ngài, hai người đã giúp nhau nên thánh. Cùng với thánh nữ Rosa, Martinô thao thức như những người đồng chí hướng, tha thiết nên thánh và mong “cứu rỗi” người khác.
Lớn lên, Martinô ước nguyện được vào dòng Đaminh làm người giúp việc vì nghĩ rằng mình không xứng đáng làm thầy dòng. Nhưng ngài được yêu cầu phải khấn trọn trong gia đình hội dòng này vì ngài thực sự trở nên gương mẫu về đời sống cầu nguyện, hy sinh, bác ái, khiêm nhường cho mọi thành viên khác trong cộng đòan. Bí quyết nên thánh của ngài là sám hối, cầu nguyện và phục vụ. Với những công việc tầm thường hèn hạ, thánh nhân đã biết thánh hóa và gán cho nó một ý nghĩa lớn nhờ đó công phúc gia tăng, đời sống thêm sung mãn và hạnh phúc. Đức tính nổi bật nơi Martinô là đơn sơ, giản dị, chân thành và đức tin mạnh mẽ. Thánh Martinô rất nhiệt thành sùng kính mầu nhiệm Thánh Thể và khổ nạn của Chúa cứu chuộc.
Trong buổi lễ phong thánh (6-5-1962), Đức giáo hòang Gioan XXIII đã có lời nhận xét về thánh Martinô như sau:Ngài đã tha thứ lỗi lầm của người khác. Ngài đã quên đi những xúc phạm thật cay đắng, vì cho rằng ngài đáng phải phạt vì những tội lỗi của chính mình. Ngài cố gắng hết sức để đền bù các lỗi lầm ấy; ngài an ủi bệnh nhân một cách trìu mến; ngài cung cấp thực phẩm, quần áo và thuốc men cho người nghèo; ngài giúp đỡ các nông dân và người da đen, cũng như những người mang hai dòng máu mà thời ấy thường coi là nô lệ: do đó ngài xứng đáng với cái tên mà người ta thường gọi là “Martinô Nhân Hậu”.
Cuộc sống hòan tòan vì người khác và cho người khác nên cũng trong bài giảng dịp lễ phong thánh đó, Đức Gioan XXIII còn nói thêm: Thánh nhân sống theo lời Thầy Chí Thánh, thánh nhân đối xử với anh em bằng tất cả đức ái, một đức ái phát xuất từ trái tim không phai nhòa và một tâm hồn khiêm nhu. Thánh nhân yêu mến người khác, vì người thực sự coi họ là con cái Thiên Chúa, và là anh em của mình. Hơn thế nữa, người còn yêu họ hơn mình. Với xác tín Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người.
         Thánh Martinô là vị thánh của người nghèo vì ngài đã tích cực cổ võ thành lập các cô nhi viện, chăm sóc người bệnh tật, người nô lệ từ Châu Phi…. Martinô luôn tâm niệm rằng những khó khăn của mình hay của người khác như là những quà tặng Thiên Chúa ban để biến ngài thành con người mới và là khí cụ của Thiên Chúa.
       Nhận biết mình là không đối với Thiên Chúa và Hội dòng, ngày kia khi nhà dòng bị nợ nần quá nhiều, Martinô khiêm tốn xin được bán đi như một người nô lệ để lấy tiền trả nợ. Thánh Martinô để lại cho chúng ta mẫu gương về đời sống khiêm tốn, phó thác và vâng phục biết dường nào.
        Vị thánh thương người của chúng ta chọn sống con đường khiêm nhu ẩn dật nhưng tình thương ngài trải rộng tới vô biên. Người ta nói, ngay cả các súc vật cũng hưởng được tình thương của ngài.
 Tóm lại: Có tình yêu mặn nồng với Thiên Chúa thì mọi khó khăn sẽ qua đi dễ dàng. Thánh Martinô Porres đã sống như thế. Thánh Martinô được trao sứ mệnh mang sứ điệp tình thương của Thiên Chúa đến với nhân loại và ngài đã hòan tất tốt đẹp sứ mạng này. Phần chúng ta, nếu chúng ta có bao nhiêu âu lo phiền muộn, bao nhiêu long đong vất vả lam lũ, bao nhiêu nghịch cảnh, hiểu lầm, bao nhiêu đắng cay, thất bại, bao nhiêu họan nạn thử thách của cuộc sống này…. hãy đến bên thánh Martinô, tha thiết xin với ngài để được ngài thương đỡ nâng, phù trì, để ngài chuyển cầu lên Thiên Chúa thay cho chúng ta.
        Ai có gánh sầu thương, ai có giây oan trường hãy tìm về bên thánh Martinô để được lấp đầy bằng lòng tin yêu hy vọng và phó thác. Cùng với lòng yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa, chúng ta mong đặt cuộc đời cho sự bầu cử đặc biệt của thánh Martinô.




http://jsthanh.blogspot.com/



THÁNG NĂM – NHỮNG ĐÓA HOA DÂNG MẸ



Tháng Năm về, một tháng trong năm với tên gọi thật thơ mộng, thật tươi vui: Tháng Hoa. 
Mỗi độ tháng Hoa về, các Nhà thờ rộn rã mùa dâng hoa kính Đức Mẹ. Phụng vụ Mùa Hoa tưng bừng nhộn nhịp với nhiều thể loại phong phú Rước hoa và Dâng hoa tuỳ mỗi tập quán mỗi đặc trưng văn hoá địa phương.
Nói tới hoa là nghĩ về một kỳ công của Thiên Chúa. Hoa muôn màu muôn sắc, hoa tươi xinh, hoa thơm ngào ngạt. Hoa tô thắm vũ trụ nên xinh tươi. Hoa mời gọi ong bướm đến hút mật. Hoa khoe sắc thắm, nhoẻn cười với con người. Lời của hoa thật dịu huyền giữa thiên nhiên. Hoa hòa vào lòng người dâng lời cảm tạ Thiên Chúa.
Loài hoa nào cũng đẹp. Loài hoa nào cũng gởi cho ta một sứ điệp yêu thương. “Hoa Hướng Dương biểu trưng cho mặt trời toả sáng, sưởi ấm lòng người. Hoa Mười Giờ gởi ta một tình yêu thuỷ chung, son sắt. Dù đời em chỉ toả sáng lúc mười giờ, nhưng trọn đời em vẫn yêu thương. Thật vấn vương khi nhắc đến loài Hoa Phượng. Loài hoa gợi ta nhớ lại những phút giây vui đùa trên sân trường thuở nhỏ, một tuổi thơ mơ tiên, hồn nhiên, trong trắng, thơ ngây, tuổi ô mai, tuổi vấn vương, tuổi học trò. Màu hoa tươi tắn là tình yêu chan chứa cho cuộc đời khô cằn nắng cháy và cũng là ước nguyện, sức sống cho tương lai. Hoa Lưu Ly là lời tha thiết yêu thương “xin đừng quên tôi”. Cuộc đời là muôn đời liên kết “xin đừng quên tôi” hỡi người tôi yêu ! Đó phải chăng là những ai còn nhớ và những ai đã quên, nhất là khi ta vắng mặt sau cuộc đời trần thế.” (Sứ điệp loài hoa, trg 11.) 
 Hoa đã trở thành bạn thân thiết với con người. Khi vui người ta tặng hoa để chúc mừng nhau. Khi buồn người ta cũng trao gởi lẵng hoa như trao gởi tấm lòng đồng cảm thân thương. Hoa khích lệ lòng người. Hoa hướng con người nhớ tới Đấng tạo hoá đã xoay vần vũ trụ bốn mùa xinh tươi. Hoa mơn man lòng người đau khổ. Hoa khích lệ những ai thất bại. Hoa chúc mừng những ai chiến thắng. Hoa ca vang kỳ công kiệt tác của Thiên Chúa. Đôi khi, chỉ một cánh hoa đủ trào dâng lòng mến của Thánh Têrêxa Hài Đồng. Nhiều lần, một dàn hoa làm tâm hồn Thánh Phanxicô ngây ngất tình Chúa. 
Lắng nghe tiếng nói huyền diệu của hoa, Thánh Bênađô biết được tâm trạng của hoa. Chẳng hạn, Hoa Hồng giàu lòng yêu mến. Hoa Huệ biểu tượng đức Khiết trinh, Hoa Tím là duyên đức đoan trang khiêm tốn. Thánh nhân ca ngợi các nhân đức Đức Mẹ qua ý nghĩa các loài hoa. Hoa Hồng đức mến, Hoa Huệ đức Khiết trinh, Hoa Tím đức Khiêm nhường. Đức Mẹ là Hoa Huệ khiết trinh. Đức Mẹ là Hoa Hồng yêu mến. Hương thanh khiết và tình yêu của Mẹ đã làm cho mùa xuân trần gian được hồi sinh. Ơn cứu độ được ban tặng cho trần đời nhờ hoa lòng của Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa.
Sứ Thần Gabriel đã cung kính thưa với Mẹ rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!" (Lc 1,28). "Ðấng đầy ơn phước" là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn. Đức Mẹ tuyệt đẹp vì không vương vấn tội, vẻ đẹp của sự thánh thiện vô tỳ tích, một vẻ đẹp không chỉ do con người nỗ lực thanh tẩy mà còn do ân sủng Thiên Chúa trao ban. 
Tháng Năm về, mỗi lần thưởng thức hương hoa, ta hãy hướng về Đức Mẹ, xin Mẹ tỏa hương thiên đàng của người, ấp ủ ta thành những đóa hoa tươi thắm của Mẹ. Mỗi khi hái hoa dâng tiến Đức Mẹ, ta hãy mượn hương sắc và lời huyền diệu của hoa để ca tụng hoặc cầu xin người. Dâng Hoa Hồng, xin Mẹ cho ta được yêu mến Mẹ nhiều hơn. Dâng Hoa Huệ, ta ca ngợi đức khiết trinh của Mẹ. Xin Mẹ lấy hương huệ trinh nguyên của hồn Mẹ ướp hồn ta nên trong trắng. 
 Tháng Năm về, mỗi tín hữu yêu mến Hoa Mân Côi cách đặc biệt hơn. Hoa Mân Côi là sứ điệp Yêu Thương, sứ điệp Ơn Cứu Độ, là kinh nguyện Phúc Âm được kết dệt từ các mầu nhiệm chính trong đạo : Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, Mầu Nhiệm Cuộc Đời Dương Thế, Vượt Qua và Thăng Thiên, được suy gẫm qua 20 Mầu Nhiệm “Hoa Mân Côi” : Năm Sự Vui, Năm Sự Sáng, Năm Sự Thương, Năm Sự Mừng. 
 Mỗi khi cất lên lời kinh: Kính mừng Maria đầy Ơn Phước… là chúng ta kết thành Hoa Mân Côi kính dâng Mẹ. Từ trời cao, Đức Mẹ mừng vui và ban muôn ơn lành cho đoàn con cái sốt mến thành tâm hướng về Mẹ.
Ở thành Nancêniô trong nước Pháp, có một gia đình trung lưu. Vợ đạo đức, chồng hiền lành nhưng khô khan. Vợ luôn cầu xin Chúa mở lòng cho chồng sửa mình, nhưng chồng cứng lòng mãi. 
 Năm ấy, đầu tháng Hoa Đức Mẹ, bà sửa sang bàn thờ để mẹ con làm việc tháng Đức Mẹ. Chồng bà bận việc làm ăn, ít khi ở nhà, và dù ông ở nhà cũng không bao giờ cầu nguyện chung với mẹ con. Ngày lễ nghỉ không bận việc làm thì cũng đi chơi cả ngày, nhưng ông có điều tốt là khi về nhà, bao giờ cũng kiếm mấy bông hoa dâng Đức Mẹ. 
 Ngày 15 tháng Sáu năm ấy, ông chết bất thình lình, không kịp gặp linh mục. Bà vợ thấy chồng chết không kịp lãnh các phép đạo, bà buồn lắm, nên sinh bệnh nặng, phải đi điều trị ở nơi xa. Khi qua làng Ars, bà vào nhà xứ trình bày tâm sự cùng cha xứ là cha Gioan Maria Vianey. 
Ngài là người đạo đức nổi tiếng, được mọi người xem là vị thánh sống. Bà vừa tới nơi chưa kịp nói điều gì, cha Vianey liền bảo:
- Đừng lo cho linh hồn chồng bà. Chắc bà còn nhớ những bông hoa ông vẫn đem về cho mẹ con bà dâng cho Đức Mẹ trong tháng Hoa vừa rồi chứ? 
Nghe cha nói, bà hết sức kinh ngạc, vì bà chưa hề nói với ai về những bông hoa ấy, nếu Chúa không soi cho cha, lẽ nào người biết được?
- Cha Vianey nói thêm: Nhờ lời bà cầu nguyện và những việc lành ông ấy đã làm để tôn kính Đức Mẹ, Chúa đã thương cho ông ấy được ăn năn tội cách trọn trong giờ chết. Ông ấy đã thoát khỏi hỏa ngục, nhưng còn bị giam trong luyện ngục, xin bà dâng lễ, cầu nguyện, làm việc lành thêm cầu cho ông chóng ra khỏi nơi đền tội nóng nảy mà lên Thiên đàng. Nghe xong lời cha Vianey, bà hết sức vui mừng tạ ơn Đức Mẹ. (trích từ: Sách Tháng Đức Bà, Hiện Tại xuất bản, 1969, trg 10).
Chỉ có mấy bông hoa nhỏ dâng kính Đức Mẹ mà người đàn ông khô khan ấy cũng được Đức Mẹ ban ơn cứu rỗi lớn lao như vậy. Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở, yêu thương nâng đỡ. Chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của bậc thầy lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Hãy luôn vững lòng cậy trông với niềm tin yêu. Đức Mẹ hằng yêu thương phù trợ mỗi người chúng ta. 
 Trong tháng Năm này, chúng ta tham dự những buổi dâng Hoa, rước kiệu, lần hạt Mân Côi…dâng lên Mẹ những hoa tin, cậy, mến, hi sinh, đau khổ, bệnh tật…chắc sẽ được Đức Mẹ ban nhiều ơn lành. Mẹ thích những bông hoa Xanh của lòng cậy, hoa Đỏ của lòng mến, hoa Trắng của lòng trong sạch, hoa Tím của hy sinh hãm mình, hoa Vàng của niềm tin, hoa Hồng của tình yêu sắt son chung thủy. 
Xin dâng lên Mẹ hoa Trắng của sự trinh trong, xin Mẹ giúp chúng con gìn giữ tâm hồn luôn trong trắng, thánh thiện. 
 Xin dâng lên Mẹ hoa Xanh của niềm cậy trông và hy vọng, xin đừng để chúng con thất vọng chùn bước trước bất cứ khó khăn nghịch cảnh nào của cuộc sống. 
Xin dâng lên Mẹ hoa Vàng của niềm tin kiên vững, xin Mẹ dạy chúng con sống phó thác tin tưởng vào tình thương và sự quan phòng của Chúa như Mẹ. 
 Xin dâng lên Mẹ hoa Hồng của lòng yêu mến, xin Mẹ dạy chúng con biết yêu Chúa hết lòng và yêu anh chị em mình như Chúa đã yêu chúng con. 
Xin dâng lên Mẹ hoa Tím của những đau khổ, bệnh tật, thất bại, xin Me dạy chúng con biết vui lòng chấp nhận Thánh Giá Chúa gởi đến để trung thành bước theo Đức Kitô, Con của Mẹ. 
Lạy Mẹ Maria, những đoá hoa lòng đơn sơ, chân thành nhưng đượm tình yêu mến, chúng con xin dâng lên Mẹ, xin Mẹ thương nhận lấy và chúc lành cho chúng con. Amen.




Tác giả bài viết: Lm Giuse Nguyễn Hữu An 


NGUỒN GỐC THÁNG HOA KÍNH ĐỨC MẸ
Tháng Hoa có từ khi nào? Do ai khởi xướng?

Vào những thế kỷ đầu, hàng năm, khi tháng Năm về, người Rôma tôn kính sự thức giấc sau mùa đông dài của thiên nhiên bằng việc tổ chức gọi những ngày lễ tôn kính Hoa là Nữ thần mùa Xuân.
Các tín hữu Công giáo trong các xứ đạo đã thánh hóa tập tục trên khi tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú. Có nơi người ta tổ chức các cuộc "Rước xanh". Người ta đi cắt các cành cây xanh tươi đang nở hoa, đưa về trang hoàng trong các nhà thờ và đặc biệt các bàn thờ dâng kính Đức Mẹ. Các thi sĩ cũng như các thánh đua nhau sáng tác những bài hát, bài giảng ca tụng những ngày lễ đó cũng như ca tụng Đức Mẹ.
Đến thế kỷ 14, Linh mục Henri Suzo dòng Đaminh, vào ngày đầu tháng 5, đã dâng lên Đức Mẹ những việc tôn kính đặc biệt và lấy hoa trang hoàng tượng Đức Mẹ. Thánh Philipe đệ Nêri, cũng vào ngày 1 tháng 5, thích tập họp các trẻ em lại chung quanh bàn thờ Đức Mẹ, để cùng các bông hoa mùa xuân, Ngài dâng cho Đức Mẹ các nhân đức còn ẩn náu trong tâm hồn non trẻ của chúng.
Đầu thế kỷ 17, tại Napoli, nước Ý, trong thánh đường kính thánh Clara của các nữ tu Dòng Phanxicô, tháng Đức Mẹ được cử hành công cộng: Mỗi chiều đều có hát kính Đức Mẹ, ban phép lành Mình Thánh. Từ ngày đó, tháng Đức Mẹ nhanh chóng lan rộng khắp các xứ đạo. Năm 1654, cha Nadasi, dòng Tên, xuất bản tập sách nhỏ khuyên mời giáo hữu dành riêng mỗi năm một tháng để tôn kính Đức Mẹ Chúa Trời.
Đầu thế kỷ 19, hết mọi xứ trong Giáo hội đều long trọng kính tháng Đức Mẹ. Các nhà thờ chính có linh mục giảng thuyết, và gần như lấy thời gian sau Mùa Chay là thời gian chính thức để tôn kính Đức Mẹ. Trong việc này, Linh mục Chardon đã có nhiều công. Không những ngài làm cho lòng sốt sắng trong tháng Đức Mẹ được phổ biến trong nước Pháp mà còn ở mọi nước Công giáo khác nữa.
Đức Giáo Hoàng Piô XII, trong Thông điệp "Đấng Trung gian Thiên Chúa", cho "việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo hội công nhận và cổ võ". Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, trong Thông điệp Tháng Năm, số 1 viết: "Tháng Năm là Tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ. Đó là dịp để "bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công giáo khắp nơi trên thế giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên đàng. Trong tháng này, các Kitô hữu, cả ở trong thánh đường cũng như nơi tư gia, dâng lên Mẹ từ tấm lòng của họ những lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến yêu cách đặc biệt. Trong tháng này, những ơn phúc của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta từ ngai tòa rất dồi dào của Đức Mẹ"